HỌ HOÀNG
HỌ HOÀNG
Phả Họ Hoàng được lưu truyền từ đời thứ nhất, ngài Sinh năm Giáp Tí – 1504, đời Vua Lê Túc Tông, niên hiệu Thái Trinh năm thứ nhất.
Gốc tại Hà Nội (Kẻ Chợ- Bắc Hà). Ngài Thĩ Tổ vâng chỉ Vua, năm Thuận Bình thứ tư (1552) theo đoàn quân Nam tiến Triều Hậu Lê vào khai hóa đất Ô Châu- Thuận Hóa, đã dừng chân tại xứ Biều Châu khai canh lập ấp dựng nên làng Nguyệt Biều.
Được phong tặng chức "Nhập Nội Bình Chương Truy Quân Quốc Sự".
Ông bà có 05 người con, 04 người ở lại Kẻ Chợ- Bắc Hà, 01 người theo ngài vào đất Biều châu.
Trải qua hơn 18 đời, dòng họ ta còn lưu bút tích, tên tuổi của cha ông từ ngày lập làng là di sản vô cùng quý giá của tổ tiên để lại cho con cháu Họ Hoàng.
Gia phả phát xuất từ Trung quốc dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu (111-256 trước Công nguyên), ở Việt Nam gia phả đã có từ bao giờ? theo lịch sử thì văn bản gia phả xuất hiện từ năm 1026 vào thời vua Lý Thái Tổ, gia phả đầu tiên được gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp. Tục làm gia phả phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia đình làm gia phả, ở đấy còn được gọi là "gia phổ" và biến thái thành "tông chi" tức tờ "tông chi tông đồ" cốt để phân phối gia tài hơn là để ghi nguồn gốc của gia đình.
Người trưởng trong gia đình có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và dòng dõi vào gia phả theo định kì; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó dể theo dõi. Các gia đình giữ gìn kỹ lưỡng và truyền đời. "Họ" theo nghĩa gốc liên hệ dòng dõi của nhà. Dưới chế độ phong kiến, Họ còn liên kết nhiều người có cùng gốc, có tài sản chung như: đất vườn, ruộng hương hỏa, Nhà thờ Họ, mồ mã tổ tiên.
Họ và tên của một người xác định vị trí của cá nhân người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.
Việc ghi chép gia phả là trách nhiệm chung của dòng họ, là việc làm thường xuyên, lơ là việc này con cháu ngày một xa cách, thân thuộc ngày một mơ hồ, hổ lốn trong cách xưng hô, đó là một thực tế đang làm vật cản trong giáo dục truyền thống, làm mất dần sự thân thiện, vị tha…
Điều hạnh phúc của con cháu Họ Hoàng là gia phả của Họ, các Nhánh, các Phái và các phòng đều được ghi chép cẩn thận, con cháu đời sau tỏ tường nguồn gốc, hiểu ý nghĩa một cách đầy đủ những ngày húy kị.
Ngày húy kỵ của các ngài là dịp để con cháu tưởng nhớ công đức tổ tiên, là cơ hội để anh em bày tỏ tình cảm cùng chung cội nguồn, nhắc nhở nhau "giọt máu đào hơn ao nước lã", tôn vinh những thành quả mà con cháu cố gắng đạt được, lợi dụng dịp này để làm tổn thương tình cảm của nhau, làm đau nhau cho thỏa lòng đố kị là việc làm không nên.
Sống có đạo hiếu với cha mẹ, cư xử "huynh hữu, đệ cung" với anh em, có trách nhiệm với dòng họ chắc chắn được cộng đồng quý mến ghi nhớ công đức. Lịch sử khẳng định: Bất hiếu với cha mẹ, bất để với anh em, bất nghĩa với vợ chồng, vô trách nhiệm với con cái là người có vấn đề về đạo đức...
Về văn hóa Dòng họ
Từ xa xưa, qua nửa thế kỉ, trải truyền 18 đời con cháu, ông cha ta đã dày công xây đắp truyền thống gia đình, tôn vinh công lao tổ tiên, chăm chút giáo dục con cháu: “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Do điều kiện của lịch sử xã hội, một số tồn tại từ các đời trước chưa được minh định nên việc nối kết dòng họ, xác định thứ bậc anh em chú bác cũng gặp những vướng mắc, nhiều mối quan hệ ẩn tàng không còn tư liệu để tham khảo, một số đời của dòng họ vì nhiều nguyên nhân nên khó xác định, con cháu của họ có người vì nhiều nguyên nhân mà sống thu mình hoặc lạc vào dòng xoáy của lịch sử đang dõi mắt hướng về.
Lịch sử dân tộc ghi nhận con cháu của các dòng họ đã đóng góp nhiều vào sự hình thành và phát triển đất nước, cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong quá trình hình thành nhân cách và phong thái đặc thù của con người Việt trong dòng chảy của lịch sử loài người.
Nối kết dòng họ, giữ truyền thống.
Trong nhiều năm, nhiều dòng họ từ Bắc đến Nam, từ trong nước ra nước ngoài, đã bắt tay vào việc truy tìm gốc tích và nối kết con cháu trong dòng họ nhằm tôn vinh niềm tự hào của dòng họ trong lòng dân tộc. Âm thầm nhưng kiên trì, vô vụ lợi trong việc nối kết dòng họ là những người có tuổi. Hiện tượng này cũng dễ hiểu, bởi vì với lớp người này đã đủ đọ chín, đã tích tụ được nhiều tư liệu có đọ tin cậy cao, có nhận thức sâu sắc về văn hóa, xã hội.
Cội nguồn từ gia đình, dòng họ là khởi nguồn cho những tình cảm thiêng liêng khác của cộng đồng dân tộc.
Việc thờ cúng tổ tiên ở nước ta đã có từ rất lâu, được duy trì từ đời này qua đời khác, trở thành đạo lý, tập tục, truyền thống thấm sâu trong tiềm thức mỗi con người. Đây là một thuộc tính đặc trưng đáng quý của con người Việt Nam, thể hiện sự tưởng nhớ tổ tiên, tự hào về nòi giống, biết ơn người đã tạo lập nên cuộc sống ngày nay cho mọi người, mọi gia đình, làng trên xóm dưới.
Thờ cúng tổ tiên là thông qua những lễ nghi để tỏ lòng thành kính, biết ơn của con cháu đối với cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ đã khuất. Trong tâm thức chúng ta tin rằng, tuy đã mất, nhưng linh hồn tổ tiên vẫn còn đang dõi theo từng bước chân của con cháu các ngài.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Nho giáo và Phật giáo đều coi trọng chữ Hiếu. Theo Phật giáo, con cái không chỉ hiếu thuận với cha mẹ vài ngày mà là cả đời mình. Người theo Thiên chúa giáo cũng luôn kính hiếu với cha mẹ, tổ tiên. Chữ Hiếu không chỉ đơn thuần là cúng tiến, lễ lạc mà được cụ thể hóa bằng cách xử sự của con cháu đối với cha mẹ ông bà. Đứa bất hiếu không chăm sóc cha mẹ khi ốm đau già yếu, làm điều khiến cha mẹ buồn phiền, không chăm sóc gia đình và nuôi dạy con cái…Từ xưa, ông cha ta đã có câu "sống thì chẳng cho ăn, đến khi chết xuống làm văn tế ruồi" để nhắc nhỡ những kẻ làm con không giữ tròn đạo hiếu.
Kính hiếu với cha mẹ là quan tâm, phụng dưỡng cha mẹ lúc về già, “trẻ cậy cha, già cậy con” âu cũng là đạo lí của muôn đời, người khoe khoang kể lể "con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày" vừa làm cha mẹ day dứt tủi thân vừa làm tổn thương tình cảm anh em mà thôi.
Con cháu giữ đạo hiếu với tổ tiên không chỉ dừng lại ở lòng biết ơn, sự phụng dưỡng mà còn phải rèn luyện nhân cách để làm người vì chúng ta vẫn nghĩ rằng "con hơn cha là nhà có phúc".
Những năm gần đây, kể từ những ngày đổi mới, đời sống kinh tế từng hộ khá lên, việc thờ cúng tổ tiên được nhiều người chú trọng. Đó là nét nghĩa của con người, nó khơi gợi cho thế hệ sau đạo lý "uống nước nhớ nguồn", sống phải có tình nghĩa, trước, sau. Song việc thờ cúng tổ tiên không nên có biểu hiện thái quá. Mồ mả cần "yên", "đẹp". Cái kính hiếu ở tâm linh là để tưởng nhớ, răn dạy con cháu chứ đâu chỉ cỗ bàn linh đình. Nếu quá chén, cãi vã, bất hòa từ cúng giỗ thì còn ý nghĩa gì nữa? Việc xây dựng “làng văn hóa” là cần thiết, cần có sự hướng dẫn bằng dư luận, bằng hương ước của làng xã làm cho cái tinh túy ngàn xưa để lại càng thăng hoa trong thời đại mới. Đó là việc làm của cả cộng đồng, xã hội.
Chữ Hiếu không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình, họ tộc mà còn được mở ra trong phạm vi làng nước. Thành Hoàng làng là người có công tạo dựng, phát triển cuộc sống của cả làng.
Gia đình - làng - nước trong tâm linh người Việt bao đỗi thân thương, gắn quyện với nhau trong cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Họ có tổ họ, làng có Thành Hoàng, nước có Tổ nước.
Vua Hùng là Tổ của muôn dân nước Việt. Ngày 10-3 âm lịch hàng năm, người Việt từ những nẻo đường "về viếng đất Tổ để tỏ lòng kính hiếu tổ tiên, nhân lên tình yêu tổ quốc, niềm tự hào dân tộc ". Xây dựng tu tạo nhà thờ, mồ mã tổ tiên, giúp đỡ nhau trong học tập, trong việc làm, trong lúc khó khăn hoạn nạn, ứng xử có trên có dưới trong gia đình là thể hiện sinh động lối sống có đạo lý của đời người vậy.
Năm 1853, năm Tự Đức thứ năm, Phả Họ , Nhánh đã được tu chỉnh, bổ sung bằng chữ Hán.
Năm 1953, sau trận lụt lịch sử, chữ Quốc ngữ đã thay thế chữ Hán trong tất cả các lĩnh vực, Phái 2 của nhánh V đã căn cứ bổn cũ phả Họ, nhánh, phái bằng chữ Hán để sao lục và dịch ra chữ Việt, phân về cho các phòng 1,2,3,4,5 một cách rõ ràng đầy đủ có kí nhận và lưu giữ cẩn thận. Việc làm này do Ông Hoàng Trọng Liêm đời thứ 15 thực hiện.
Những hoạt động của Họ
*Thường niên bát kị và lễ Đông chí
*Từ 3 đến 6 năm có tiểu, trung lễ tế
*Đại lễ hiệp tế năm Kỉ Hợi - 1959
*Đại lễ hiệp tế năm Tân Mão - 2011
Đời thứ nhất
Tiền thủy tổ
húy Ông Tuế
Tên chữ HOÀNG QUẬT- ĐẠI LANG
Sinh năm Giáp Tý - 1504
đời Vua Lê Túc Tông, niên hiệu Thái Trinh năm thứ nhất.
Gốc tại Hà Nội (Kẻ Chợ- Bắc Hà).
Năm 1552, đời Vua Lê Trung Tông (1548-1556), niên hiệu Thuận Bình thứ tư, năm ấy ngài được 49 tuổi, vâng chỉ Vua ngài vào đất Ô Châu - Thuận Hóa, đã dừng chân tại xứ Biều Châu khai canh lập ấp dựng nên làng Nguyệt Biều.
Được phong tặng:
"Nhập Nội Bình Chương Truy Quân Quốc Sự".
Làng có làm miếu thờ ngài ở về xứ Biều Châu, bên hữu miếu Hội đồng có Thần vị "khắc bổn thổ tiền khai canh Hoàng Quật- Đại Lang tôn thần".
Làng có trí 7 sào ruộng tự điền.
Tại Miếu Ông ở xóm Vạn Phước, thường năm trong làng lo phụng tự.
Ông bà sinh được 05 người con trai.
04 người con ở lại Kẻ Chợ- Bắc Hà, 01 người theo ngài vào đất Biều Châu là ông Hoàng Trọng Chiêm.
Ngày kỵ Ông: 15 tháng Tư
Ngày kỵ Bà : 15 tháng Giêng
Mộ của Ông, Bà và cháu nội (hiển đệ tam thế tổ, húy Ông Rồng tên chữ Hoàng Trọng Huệ) táng trong vườn Nhà Thờ Họ.
Mộ của Ông phía bên trái, Mộ của Bà phía bên phải.
Đời thứ nhì
Hiển đệ nhị thế tổ
húy Ông Lâm
Tên chữ HOÀNG TRỌNG CHIÊM-ĐẠI LANG
Cùng cha vào xứ Thuận Hóa lập làng, là bổn thổ khai canh Làng Nguyệt Biều
Được phong tặng "Nhập nội bình chương truy quân quốc sự"
Làng lập Miếu Ông thờ ngài phía bên tả.
Mộ Ông Bà táng ở Cồn Nghệ.
Ngày kị Ông Ngày 03 tháng Tư
Ngày kị Bà Ngày 02 tháng Chạp
Ông bà sinh được 02 người con:
1.Húy Ông Rồng, tên chữ Hoàng Trọng Huệ, không có vợ con,
kỵ ngày 30/12.
Mộ Ông Rồng táng bên cạnh Ông Bà nội trong vườn Nhà Thờ Họ.
2.Húy Ông Lai, tên chữ Hoàng Trọng Tài
Đời thứ ba
Hiển đệ tam thế tổ
húy Ông Lai
Tên chữ HOÀNG TRỌNG TÀI
Ngài là con thứ hai của Ông Hoàng Trọng Chiêm
Ngày kị Ông: 19 tháng Sáu
Ngày kị Bà : 16 tháng Chạp
Mộ Ông Bà táng ở cồn Nghệ.
Ông bà sinh được 02 người con:
1.Húy Trung, tên chữ Hoàng Văn Bính.2.Tên chữ Hoàng Trọng Dựng
Đời thứ tư (a)
Hiển đệ tứ thế tổ
húy Ông Trung
Tên chữ HOÀNG VĂN BÍNH
Ông là con của ngài đệ tam thế tổ Hoàng Văn Tài
Ông mất ngày 13 tháng Mười
Bà mất ngày 24 tháng Giêng
Mộ Ông Bà táng ở cồn Nghệ.
Ông bà có 04 người con và một người con nuôi:
Sau này thành tiên tổ của năm nhánh
Nhánh II : HOÀNG TRỌNG VƠI
Nhánh III: HOÀNG TRỌNG ĐỒ
Nhánh IV: HOÀNG TRỌNG RÂN
Nhánh V : HOÀNG TRỌNG NHÂN
Nhánh VI : HOÀNG TRỌNG
Đời thứ tư (b)
Hiển đệ nhất chi thế tổ
Húy Ông Dựng
Tên chữ HOÀNG TRỌNG DỰNG
Ông Hoàng Trọng Dựng con thứ 2 của Ông Hoàng Trọng Tài.
Nguyên khi trước anh là Hoàng Văn Bính, nuôi em là Hoàng Trọng Dựng làm con nuôi, sau lập em làm con trưởng, đặt ông làm Tổ nhánh I.
Con cháu Nhánh I thờ phụng ngài.
Đời thứ năm (1)
Hiển đệ nhị chi thế tổ
Tên chữ HOÀNG TRỌNG VƠI
Ngài là con trưởng của Ông đệ tứ thế tổ Hoàng Văn Bính.
Ngài là tiên tổ nhánh II
Đời thứ năm (2)
Hiển đệ tam chi thế tổ
Tên chữ HOÀNG TRỌNG ĐỒ
Ngài là con của Ông đệ tứ thế tổ Hoàng Văn Bính.
Ngài là tiên tổ nhánh III
Đời thứ năm (3)
Hiển đệ tứ chi thế tổ
Tên chữ HOÀNG TRỌNG RÂN
Ngài là con của Ông đệ tứ thế tổ Hoàng Văn Bính.
Ngài là tiên tổ nhánh IV
Đời thứ năm (4)
Hiển đệ ngũ chi thế tổ
Tên chữ HOÀNG TRỌNG NHÂN
Ngài là con của Ông đệ tứ thế tổ Hoàng Văn Bính.
Ngài là tiên tổ nhánh V
Đời thứ năm (5)
Hiển đệ lục chi thế tổ
Tên chữ HOÀNG TRỌNG
Ngài là con nuôi của Ông đệ tứ thế tổ Hoàng Văn Bính. Theo bản chữ Hán dịch ra: Cha con anh em Ông Hiển Chinh tức là lính Biện xin nhập Họ Hoàng vào dịp Họ có Lễ làm chay năm Giáp Dần -1734, đời Vua Lê Thuần Tông, niên hiệu Long Đức thứ ba.
Tổ Họ Hoàng khai sáng cơ nghiệp rất gian lao, chi tiết chép trong phổ Họ trung thành với phổ cũ được dịch ra từ chữ Hán di lưu của đời trước, không dám tự biên tuỳ tiện.
[Ông Hoàng Trọng Dựng con thứ 2 của Ông Hoàng Trọng Tài.
Nguyên khi trước anh là Hoàng Văn Bính, nuôi em là Hoàng Trọng Dựng làm con nuôi, sau lập em làm con trưởng, đặt ông làm Tổ nhánh I.]
...đoạn này do Ông Hoàng Trọng Liêm dịch từ Phổ họ chữ Hán năm 1853, do sự phát triển của Tiếng Việt của những năm 1953 nên khi con cháu đời sau đọc cảm thấy không ổn lắm...Tôi hiểu ý nghĩa đoạn này như sau: Ông Hoàng Trọng Dựng là con thứ hai của Ông Hoàng Trọng Tài, ở với anh Hoàng Trọng Bính.
Chú và 4 cháu cùng lớn lên trong một nhà, Chú gánh vát công việc nhà như người anh trưởng, sau này con cháu các đời sau tôn chú và 4 cháu trở thành tiên tổ của 5 nhánh ( I, II, III, IV, V). Đến năm 1734, Họ đồng thuận cho gia đình Ông Hiển Chinh nguyên là Lính biện nhận Họ Hoàng, được Họ xếp làm nhánh VI.)]
[...Năm 1734, phổ Họ ghi là năm Long Đức thứ 3 là có phần chưa chính xác...theo tôi Năm 1734 - Giáp Dần thuộc đời Vua Lê Thuần Tông ( 1733-1735) niên hiệu Long Đức thứ 2. Trong Nam thời Chúa Nguyễn Phúc Chú (1725-1738), ngoài Bắc thời Chúa Trịnh Giang (1729-1740). Căn cứ Phả Nhánh V, năm 1734 dòng họ Hoàng đời thứ 7 đã trưởng thành, khẳng định việc nhập Họ Hoàng của Nhánh VI là cả Gia đình Ông Hiển Chinh chứ không chỉ là một người con nuôi như truyền thuyết.]
[Ông Hoàng Trọng Dựng con thứ 2 của Ông Hoàng Trọng Tài.
Nguyên khi trước anh là Hoàng Văn Bính, nuôi em là Hoàng Trọng Dựng làm con nuôi, sau lập em làm con trưởng, đặt ông làm Tổ nhánh I.]
...đoạn này do Ông Hoàng Trọng Liêm dịch từ Phổ họ chữ Hán năm 1853, do sự phát triển của Tiếng Việt của những năm 1953 nên khi con cháu đời sau đọc cảm thấy không ổn lắm...Tôi hiểu ý nghĩa đoạn này như sau: Ông Hoàng Trọng Dựng là con thứ hai của Ông Hoàng Trọng Tài, ở với anh Hoàng Trọng Bính.
Chú và 4 cháu cùng lớn lên trong một nhà, Chú gánh vát công việc nhà như người anh trưởng, sau này con cháu các đời sau tôn chú và 4 cháu trở thành tiên tổ của 5 nhánh ( I, II, III, IV, V). Đến năm 1734, Họ đồng thuận cho gia đình Ông Hiển Chinh nguyên là Lính biện nhận Họ Hoàng, được Họ xếp làm nhánh VI.)]
[...Năm 1734, phổ Họ ghi là năm Long Đức thứ 3 là có phần chưa chính xác...theo tôi Năm 1734 - Giáp Dần thuộc đời Vua Lê Thuần Tông ( 1733-1735) niên hiệu Long Đức thứ 2. Trong Nam thời Chúa Nguyễn Phúc Chú (1725-1738), ngoài Bắc thời Chúa Trịnh Giang (1729-1740). Căn cứ Phả Nhánh V, năm 1734 dòng họ Hoàng đời thứ 7 đã trưởng thành, khẳng định việc nhập Họ Hoàng của Nhánh VI là cả Gia đình Ông Hiển Chinh chứ không chỉ là một người con nuôi như truyền thuyết.]
Hằng năm tại Nhà thờ Họ có lễ thương niên bát kị và lễ Đông chí.
3-6 năm có lễ tế trong phạm vi chú bác trai họ ở địa phương.
Năm Kỷ Hợi -1959, Họ tổ chức Đại lễ hiệp tế.
Năm Tân Mão -2011 Họ dự định tổ chức Đại lễ hiệp tế.
Sẵn sàng cho Đại lễ hiệp tế 2011 của Họ Hoàng Thủy Biều
Ngày 19/6/2011 theo thông báo của Ông Trưởng Họ Hoàng Trọng Hoát, đến nay, các công việc chuẩn bị cho Đại lễ hiệp tế 2011 của họ Hoàng Thủy Biều đã cơ bản đáp ứng kế hoạch đúng tiến độ.
Ngày 19/6, Hội đồng Họ Hoàng đã tổ chức hội nghị trù bị nhằm đánh giá công tác chuẩn bị dưới sự chủ trì của Trưởng họ Hoàng Trọng Hoát.
Theo Ban tổ chức, đến nay, tất cả các công việc chuẩn bị đã cơ bản đáp ứng kế hoạch.
Ban tổ chức đã chuẩn bị cho lễ khai mạc, bế mạc và các chương trình văn nghệ diễn ra trong dịp Đại lễ hiệp tế 2011 của họ Hoàng; chuẩn bị mặt bằng, sân khấu thống nhất sơ đồ bố trí các địa điểm tổ chức các hoạt động; thống nhất và tổ chức các điều kiện cần thiết cho con cháu nội ngoại dự lễ dâng hương.
Các công trình xây dựng, tôn tạo trong Khu Nhà thờ Họ đã hoàn tất. Về công tác đảm bảo an ninh trật tự, y tế, vệ sinh an toàn thực phẩm đã được tính đến và đi trước một bước. Ban tổ chức đã rà soát và tổ chức các đơn vị phục vụ Đại lễ hiệp tế.
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
Chia sẻ lên Google Bu